VAI TRÒ CHUYÊN NHẤT CỦA CHÚA KITÔ VÀ GIÁO HỘI

 

 

vào Ngài là Đấng phán bảo. Như thế, ‘chúng ta không tin vào một ai khác ngoài Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần’ (cùng nguồn vừa dẫn, số 178).

 

Vì thế, phải nắm vững sự khác biệt giữa đức tin đối thần với niềm tin nơi các tôn giáo khác. Nếu đức tin là việc theo ơn Chúa chấp nhận chân lý mạc khải, một thứ chân lý ‘tự mình có thể thấu nhập mầu nhiệm ở chỗ giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm ấy một cách chặt chẽ’ (Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, 13), thì niềm tin nơi các tôn giáo khác là tất cả cảm nghiệm và tâm tưởng làm nên kho tàng khôn ngoan và nguyện vọng đạo lý của con người, những kho tàng khôn ngoan và nguyện vọng mà con người, trong lúc đi tìm kiếm chân lý, đã cưu mang và tác hành trong mối liên hệ với Thiên Chúa và Đấng Tối Cao (cùng nguồn vừa dẫn, 31-32).

 

Việc phân biệt này không luôn luôn được thể hiện nơi tâm trí của suy tư thần học hiện nay. Bởi thế, đức tin đối thần (việc chấp nhận chân lý được Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi mạc khải) thường bị đồng hóa với niềm tin nơi các tôn giáo khác, tức với cảm nghiệm tôn giáo vẫn còn đang trên đường tìm kiếm chân lý tuyệt đối và vẫn chưa có thuận theo Thiên Chúa là Đấng mạc khải bản thân mình ra. Đó là một trong những lý do tại sao cái khác nhau giữa Kitô Giáo và các tôn giáo có những lúc như bị giảm xuống tới mức độ biến mất”.

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 7.1, 7.2, 7.3, 7.4)

 

3.   Không có vấn đề khác biệt giữa Đức Giêsu Kitô và Ngôi Lời, cũng như giữa tác động cứu độ của Ngôi Lời và của Lời Nhập Thể.

 

·        Nơi suy tư thần học hiện đại thường có khuynh hướng cho Đức Giêsu Nazarét là một nhân vật lịch sử hạn hữu riêng biệt, Đấng tỏ thần linh ra không phải một lần duy nhất mà bằng một đường lối cần được bổ khuyết bởi các nhân vật khải huyền và cứu độ khác nữa. Như thế, Mầu Nhiệm Vô Cùng, Tuyệt Đối, Tối hậu của Thiên Chúa được tỏ hiện cho nhân loại thấy bằng nhiều đường lối và nơi nhiều nhân vật lịch sử, trong số đó có cả Đức Giêsu Nazarét. Cụ thể hơn, một số người còn cho Đức Giêsu là một trong nhiều bộ mặt được Lời tỏ hiện trong giòng thời gian để tiếp xúc với nhân loại bằng đường lối cứu độ.

 

“Ngoài ra, để biện minh tính cách phổ quát của ơn cứu độ Kitô Giáo cũng như sự kiện về việc đại đồng tôn giáo, vấn đề đã được đặt ra là công cuộc của Lời hằng hữu cũng có tác hiệu cả ở ngoài Giáo Hội và không có liên hệ gì với Giáo Hội cả, một công cuộc thêm thắt vào công cuộc của Lời nhập thể. Công cuộc của Lời hằng hữu có một giá trị phổ quát bao rộng hơn công cuộc của Lời nhập thể là công cuộc chỉ hạn hẹp nơi thành phần Kitô hữu, cho dù Thiên Chúa có hiện diện tràn đầy hơn ở công cuộc của Lời nhập thể.

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 9.1 và 9.2)

 

Những luận đề này hoàn toàn trái với đức tin Kitô Giáo. Tín lý đức tin cần phải được mạnh mẽ tuyên xưng Đức Giêsu Nazarét, con của Đức Maria, cũng là Con và Lời của Chúa Cha. Lời, Đấng ‘từ ban đầu đã ở nơi Thiên Chúa’ (Jn 1:2) cũng là Đấng ‘đã hóa thành nhục thể’ (Jn 1:14). Nơi Giêsu ‘là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ (Mt 16:16), ‘toàn thể tầm mực viên toàn của thần tính ngự trị một cách thể lý’ (Col 2:9). Người là ‘Người Con duy nhất của Cha, Đấng ở trong Cha’ (Jn 1:18), ‘Người Con yêu dấu của Ngài, nơi Người chúng ta được cứu chuộc... Nơi Người tầm mức viên mãn của Thiên Chúa hân hoan ngự trị, và qua Người, Thiên Chúa muốn hòa giải tất cả mọi sự với chính mình Ngài, cả dưới đất cũng như trên trời, giải hòa bằng máu thập tự giá của Người’ (Col 1:13-14, 19-20).

 

Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã minh nhiên công bố là: ‘Đặt ra bất cứ một vấn đề phân chia nào giữa Lời và Đức Giêsu Kitô đều trái với đức tin Kitô Giáo... Đức Giêsu là Lời nhập thể – một ngôi vị duy nhất bất phân... Đức Kitô không là ai khác ngoài Giêsu Nazarét; Người là Lời Thiên Chúa làm người vì phần rỗi của tất cả mọi người...” (Thông Điệp Redemptoris Missio, 6). 

 

Cũng trái với đức tin Công Giáo như vậy nữa khi đặt ra vấn đề phân chia giữa tác động cứu độ của Lời với tác động cứu độ của Lời hóa thân làm người. Qua việc nhập thể, tất cả mọi tác động cứu độ của Lời Thiên Chúa luôn luôn được thực hiện trong mối hiệp nhất với bản tính loài người được Người mặc lấy vì phần rỗi của tất cả mọi người. Chủ thể duy nhất tác hành nơi cả hai bản tính, bản tính nhân loại và bản tính thần linh, là ngôi vị duy nhất của Lời (x Thánh Lêô Cả, Tomus ad Flavianum: DS 294).

 

Bởi thế, thuyết qui hoạt động cứu độ cho Lời theo thần tính của Người sau khi nhập thể như vậy, một hoạt động cứu độ được thực hiện ‘thêm vào’ hay ‘ở ngoài’ nhân tính của Đức Kitô, không hợp với đức tin Công Giáo (x. Thánh Lêô Cả, Thư gửi Hoàng Đế Lêô I Promisisse me memini: DS 318 ‘... in tantam unitatem ab ipso conceptu Birginis deitate et humanitate conserta, ut nec sine homine divina, nec sine Deo agerentur humana’. Cũng x DS 317)”

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 10.1, 10.4, 10.5 và 10.6)

 

 

4. Không có vấn đề hoạt động của Chúa Thánh Thần bao rộng hơn, ở ngoài hay song song với hoạt động của Lời Nhập Thể.

 

·        Cũng có những người nêu lên giả thiết cho rằng công cuộc của Chúa Thánh Thần thì bao rộng phổ quát hơn công cuộc của Lời Nhập Thể, Đấng tử giá và phục sinh. Chủ trương này cũng trái với đức tin Công Giáo, một đức tin chủ trương ngược lại, ở chỗ, coi việc nhập thể cứu độ của Lời như là một biến cố của cả Ba Ngôi Thiên Chúa vậy. Theo Tân Ước, mầu nhiệm về Chúa Giêsu, Lời Nhập Thể, làm nên nơi cho Chúa Thánh Thần hiện diện cũng như trở thành nguyên lý cho việc tuôn tràn Thần Linh xuống trên nhân loại, chẳng những vào thời kỳ cứu độ (x Acts 2:32-36; Jn 7:39, 20-22; 1Cor 15:45), còn vào cả trước thời gian Người đi vào lịch sử nữa (x 1Cor 10:4; 1Pet 1:10-12)...

 

Bởi vậy, Huấn Quyền gần đây của Giáo Hội đã mạnh mẽ và rõ ràng nhắc lại sự thật về một công cuộc thần linh duy nhất: ‘Sự hiện diện và hoạt động của Thần Linh chẳng những chi phối cá nhân con người mà còn cả xã hội và lịch sử, các dân tộc, văn hóa và tôn giáo nữa... Chúa Kitô hiện đang hoạt động nơi tâm can nhân loại bằng quyền lực của Thần Linh Người... Chính Thần Linh là Đấng gieo ‘hạt giống lời Chúa’ hiện diện nơi các tập tục và văn hóa khác nhau, làm cho những lãnh vực này hoàn toàn nên trọn trong Chúa Kitô’ (Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 28; về ‘hạt giống Lời Chúa’ cũng xem cả Thánh Justine tử đạo, Hộ Giáo Thứ Hai 8, 1-2; 10, 1-3; 13, 3-6; ed. E.J. Goodspeed, 84; 85; 88-89). Trong khi công nhận sứ vụ cứu độ trong lịch sử của Thần Linh nơi toàn thể vũ trụ cũng như trong toàn bộ lịch sử nhân loại (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 28-29), Huấn Quyền còn xác nhận:Đây là chính Vị Thần Linh đã hoạt động trong việc nhập thể, trong đời sống, trong cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, cũng là Đấng hoạt động trong cả Giáo Hội nữa. Bởi thế, Ngài không phải là một thứ hoán vị thay cho Chúa Kitô, và Ngài cũng không phải là một thứ khỏa lấp, đôi khi theo người ta nghĩ, giữa Đức Kitô và Ngôi Lời. Bất cứ những gì Thần Linh làm phát sinh nơi tâm trí con người cũng như nơi lịch sử của các dân tộc, nơi văn hóa và tôn giáo, đều giúp vào việc sửa soạn cho Phúc Âm, và chỉ có thể hiểu được trong mối tương quan với Chúa Kitô là Lời, Đấng đã mặc lấy xác thịt bởi quyền phép Thần Linh, và, vì là một con người toàn vẹn, Người đã cứu độ toàn thể nhân loại và thâu tóm tất cả mọi sự’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 29).

 

Tóm lại, hoạt động của Thần Linh không ở ngoài hay song song với hoạt động của Chúa Kitô. Chỉ có một công cuộc cứu độ duy nhất của một Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi, được thể hiện nơi mầu nhiệm nhập thể, nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa, được hiện thực nhờ việc hợp tác của Thánh Linh, và được vươn tới toàn thể nhân loại cùng toàn thể vũ trụ ở giá trị cứu độ của công cuộc này: ‘Thế nên, không ai có thể được hiệp thông với Thiên Chúa ngoại trừ qua Chúa Kitô và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 5)”.  

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 12.1, 12..5 và 12.6)

 

5. Không có vấn đề tương đương hay bổ khuyết cho Chúa Giêsu Kitô trong vai trò môi giới duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người của Người.